Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

               Kiều và những dư ba lịch sử

Từ khi chuyện Kiều ra đời đến năm 1945, việc nhìn nhận và đánh giá Kiều
Dựa trên hai quan điểm: quan điểm ít nhiều mang tính nhân văn chủ nghĩa
Của các nhà nho tài tử, và quan điểm của nho giáo chính thống ( cho dù
Ngay chính quan điểm này việc đánh giá Kiều đôi khi rất trái ngược )bởi
Cả cuộc đời Kiều là cuộc vật lộn giữa  “Tài” “Sắc” với “Mệnh” Chứ
Không phải là sự tranh thắng giữa “Đức” với “Mệnh”.
 Ngay ở giữa thế kỷ  XIX, việc ca ngợi Thúy Kiều như một tấm gương đạo
Đức về người phụ nữ nho giáo một cách thái quá như học giả Phạm
Quỳnh : “Văn chương chỉ có độc một quyển, vừa là kinh, vừa là phúc âm
Thánh thư của cả một dân tộc…Chuyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta
Còn, nước ta còn”.
  Chuyện Kiều cũng đã phải chịu những phản ứng ngược, nhà chí sỹ Huỳnh
Thúc Kháng đã dùng đến cụn từ không thể nặng hơn: con đĩ Kiều!. Điển
Hình là thái độ của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ:
 “Đã biết má hồng thì phận bạc/ Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng/ chiếc
thoa đành phụ nghĩa Kim lang/ Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải/ Từ
Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải/ Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh
 lâu/ Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu/ Mà bướm chán ong chường cho đến thế/
 Bạc mệnh chẳng làm người tiết nghĩa/ Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm/
Bán mình trong bấy nhiêu năm/ Đố mang chữ hiếu mà lầm được ai/ Nghĩ đời
 mà gán cho đời”.
  “ Diễn nôm” bài này như sau: Kiều vì chữ hiếu mà phụ tình Kim Trọng
Bán mình vào thanh lâu chuộc cha,  cũng được. Nhưng đó là lần đầu
tiên, lần gặp Mã Giám Sinh. Đến lần thứ hai, lần gặp Từ Hải, thì vì cái gì?
( trong trường hợp này, nếu thực là một phụ nữ trinh liệt, ắt xẽ tìm đến
 cái chết để giữ tiếng thơm). Trường hợp này không thể lấy đạo đức để biện
minh cho hành động. Vậy chỉ có thể nói rằng đó là do căn tính dâm tà mà
ra. Và như thế đoạn trường là đáng kiếp.
 Thật ngạc nhiên: một danh sỹ phong lưu hạng nhất, một nhà nho sành sỏi
đủ ngón ăn chơi, một người đã từng tuyên sưng với thế nhân cái triết lý:
“ cuôc hành lạc được bao nhiêu là lãi đấy/ Nếu không chơi thiệt ấy ai bù/
Nghề chơi cũng lắm công phu…” mà lại mạt sát Kiều nặng đến thế?.
 Bài này ra đời trong bối cảnh ông vua Tự Đức đang rầm rộ mở cuộc thi
vịnh Kiều với mục đích biến Kiều thành một tấm gương đạo đức theo quan
 niệm nho giáo…Có thể với tính ngông sẵn có, Uy Viễn tướng công đã cố
 tình tạo ra một tiền lệ như kiểu dùng mo cau để “Che miệng thế gian” ngược
 nước với ông vua “ Sính chữ” kia chăng?.
  Rốt cuộc, chỉ có nàng kiều là người chịu thiệt!.
                
                 *tài liệu từ báo đại biểu quốc hội số:44- 47
                                                                      05/2012


Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

                                      Linh Từ ngũ nhạc

Nơi thờ Quốc Tổ Quốc Mẫu ai cũng biết là đền Hùng. Còn nơi nhà nước Việt Nam lập đàn tế cáo trời đất lại là đỉnh núi Ngũ Nhạc thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
          Đường lên đỉnh núi Ngũ Nhạc có hai đường chính. Một là từ chùa Côn Sơn thuộc địa phận xã  Cộng Hòa,  hai là từ đền Sinh nằm ở bên kia núi thuộc địa phận xã Lê Lợi. Bậc lên xuống với rất nhiều chiếu nghỉ cả hai con đường đều lát đá xanh nguyên khối mang từ Thanh Hóa về. Đây là cả một công trình khiến trúc mang tính nghệ thuật cao. Với dáng uốn lượn, phần lớn con đường đều nằm dưới bóng thông mát dịu, có những đoạn lại nhô ra bên vách núi dựng đứng, rực rõ ánh mặt trời, khiến cho ai leo đến đó, dù miệng mũi đang tranh nhau thở cũng phải ồ lên thích thú trước khoảng trời bao la đầy nắng và gió, được nheo mắt lại để ngắm làng mạc, ruộng đồng, để được tranh cãi về một địa danh, về một con sông có mầu sáng cứ ánh lên phía trời xa.
          Kinh nghiệm leo núi  không lên nôn nóng bước nhanh, hai bước ngắn dành cho mỗi bậc rồi mới bước chân kia lên  bậc khác.  Như vậy, khi xuống núi bắp chân mới không bị đau cứng.
         Ngũ Nhạc nhấp nhô năm ngọn núi với chu vi khoảng một km2 đều xây miếu thờ được liên kết với nhau bằng những con đường đá sám, bốn ngọn nằm bốn hướng Đông, Tây, nam, bắc có tên gọi theo hướng: Đông Nhạc Miếu, Tây Nhạc Miếu … Còn ngọn thứ năm- Trung Nhạc Miếu, nơi hội tụ đủ các nguồn sinh khí- chính là nơi lập đàn tế cáo trời đất của nhà nước Việt Nam.
                                         Ngũ Nhạc giáng thần phò quốc thái
                                         Côn Sơn hiển thánh độ muôn đân
        Hai vế đối khắc nổi trên đá ( mặc dù còn gây nhiều tranh cãi về chữ nghĩa) đã khái quát suất sứ nơi tiên cảnh.
        Tháng giêng tiết đầu năm mới, nhà nước Việt Nam lập đàn tế cáo trời đất, Trung Nhạc Miếu phất phới cờ thần, rực rỡ nến  thắp hoa đăng ,  Những bộ y phục xanh đỏ, tía hồng với đai vàng khảm ngọc, hai tay dâng nến theo đội múa kỳ lân
Nhã nhạc vang lừng , kính cẩn thượng đàn tiến lễ :
                                “...kính cáo trời đất
                                 Kính cáo anh linh ngũ nhạc linh từ
         Hôm nay, tiết trời xuân Nhâm Thìn...con cháu Đại Việt, dòng giống Lạc Hồng cùng khách thập phương về trước anh linh Ngũ Nhạc Linh Từ đâng nén trầm hương kính cáo trời đất…
        …cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa…non sông đời đời bền vững.
                                                                            Chúng con đồng quỳ lễ
                                                                             Thượng tọa…..quỳ tấu!”
   Sau nghi thức linh thiêng tế cáo trời đất. Chờ những nốt nhạc cuối cùng bây vút vào không gian . Mọi người  mãn nguyện, hoan hỷ đón nhận phần lộc. “Một miếng lộc Thánh bằng cả gánh lộc trần” đã là quý lắm rồi. Đây lại là lộc của trời , của đất, của nhà nước Viêt Nam được đích tay thượng tọa có ấn, có tín thừa hành ban phát với lời chúc cho niềm vui , cho tài lộc gia khuyến nẩy nở sinh sôi, xây dựng non sông đời đời bền vững.
    Dòng người tản dần trong sương mù bảng láng xứ thàn tiên lẫn vào đại ngàn xanh ngút ngát.
                                                                                      
                                                                  16 tháng giêng năm Nhâm Thìn

                                      Linh Từ ngũ nhạc

Nơi thờ Quốc Tổ Quốc Mẫu ai cũng biết là đền Hùng. Còn nơi nhà nước Việt Nam lập đàn tế cáo trời đất lại là đỉnh núi Ngũ Nhạc thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương.
          Đường lên đỉnh núi Ngũ Nhạc có hai đường chính. Một là từ chùa Côn Sơn thuộc địa phận xã  Cộng Hòa,  hai là từ đền Sinh nằm ở bên kia núi thuộc địa phận xã Lê Lợi. Bậc lên xuống với rất nhiều chiếu nghỉ cả hai con đường đều lát đá xanh nguyên khối mang từ Thanh Hóa về. Đây là cả một công trình khiến trúc mang tính nghệ thuật cao. Với dáng uốn lượn, phần lớn con đường đều nằm dưới bóng thông mát dịu, có những đoạn lại nhô ra bên vách núi dựng đứng, rực rõ ánh mặt trời, khiến cho ai leo đến đó, dù miệng mũi đang tranh nhau thở cũng phải ồ lên thích thú trước khoảng trời bao la đầy nắng và gió, được nheo mắt lại để ngắm làng mạc, ruộng đồng, để được tranh cãi về một địa danh, về một con sông có mầu sáng cứ ánh lên phía trời xa.
          Kinh nghiệm leo núi  không lên nôn nóng bước nhanh, hai bước ngắn dành cho mỗi bậc rồi mới bước chân kia lên  bậc khác.  Như vậy, khi xuống núi bắp chân mới không bị đau cứng.
         Ngũ Nhạc nhấp nhô năm ngọn núi với chu vi khoảng một km2 đều xây miếu thờ được liên kết với nhau bằng những con đường đá sám, bốn ngọn nằm bốn hướng Đông, Tây, nam, bắc có tên gọi theo hướng: Đông Nhạc Miếu, Tây Nhạc Miếu … Còn ngọn thứ năm- Trung Nhạc Miếu, nơi hội tụ đủ các nguồn sinh khí- chính là nơi lập đàn tế cáo trời đất của nhà nước Việt Nam.
                                         Ngũ Nhạc giáng thần phò quốc thái
                                         Côn Sơn hiển thánh độ muôn đân
        Hai vế đối khắc nổi trên đá ( mặc dù còn gây nhiều tranh cãi về chữ nghĩa) đã khái quát suất sứ nơi tiên cảnh.
        Tháng giêng tiết đầu năm mới, nhà nước Việt Nam lập đàn tế cáo trời đất, Trung Nhạc Miếu phất phới cờ thần, rực rỡ nến  thắp hoa đăng ,  Những bộ y phục xanh đỏ, tía hồng với đai vàng khảm ngọc, hai tay dâng nến theo đội múa kỳ lân
Nhã nhạc vang lừng , kính cẩn thượng đàn tiến lễ :
                                “...kính cáo trời đất
                                 Kính cáo anh linh ngũ nhạc linh từ
         Hôm nay, tiết trời xuân Nhâm Thìn...con cháu Đại Việt, dòng giống Lạc Hồng cùng khách thập phương về trước anh linh Ngũ Nhạc Linh Từ đâng nén trầm hương kính cáo trời đất…
        …cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa…non sông đời đời bền vững.
                                                                            Chúng con đồng quỳ lễ
                                                                             Thượng tọa…..quỳ tấu!”
   Sau nghi thức linh thiêng tế cáo trời đất. Chờ những nốt nhạc cuối cùng bây vút vào không gian . Mọi người  mãn nguyện, hoan hỷ đón nhận phần lộc. “Một miếng lộc Thánh bằng cả gánh lộc trần” đã là quý lắm rồi. Đây lại là lộc của trời , của đất, của nhà nước Viêt Nam được đích tay thượng tọa có ấn, có tín thừa hành ban phát với lời chúc cho niềm vui , cho tài lộc gia khuyến nẩy nở sinh sôi, xây dựng non sông đời đời bền vững.
    Dòng người tản dần trong sương mù bảng láng xứ thàn tiên lẫn vào đại ngàn xanh ngút ngát.
                                                                                      
                                                                  16 tháng giêng năm Nhâm Thìn

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

NỖI NHỚ



   Việt Nam nằm ở miền nhiệt đới, có rất nhiều sông hồ...Sông Cửu Long chín nhánh sum xuê dừa đước, chở nặng phù xa bồi đắp trù phú cho miền đồng bằng với những miệt vườn chĩu cành hoa trái. Sông Mã oai hùng với những thác nghềnh hiểm trở tạo niềm đam mê khám phá cho các nhà nghiên cứu và du lịch. Sông Danh, sông Bến Hải mang nặng dấu ấn lịch sử bi hùng của một thời phân chia Nam Bắc. Có con sông lại lắng đọng trong lòng mỗi người bởi những vần thơ ngọt ngào, bởi những nhịp hò mái đẩy rất Hương Giang khiến cho ai đã đến thì không thể quên.
  Tôi cũng được nuôi dưỡng và lớn lên bên một dòng sông...  Lục Đầu Giang  sáu nhánh  nhưng phần lớn làng  tôi lại bám theo mép nước sông Thương. Sông Thương chở nặng phù xa nhưng rất lạ lại chia thành hai dòng trong và đục:
                                Sông Thương dù  có chia hai dòng trong và đục
                                Người bến sông này có... Ngạn đục lắng trong
                                Ai ơi ! nếu đã nặng lòng  
                                Cau trầu...dù  xanh mướt...Muốn mặn nồng...Phải có vôi
 Những câu hò của cánh chân sào đò dọc được gió  nam đưa đẩy cứ len lỏi, lẩn khuất đâu đó qua rặng tre bến sông làm bao cô gái làng sao xuyến. Vẫn bến sông chiều phẳng lặng, vẫn tà áo nâu non với má thắm môi đào mà sao dòng sông Thương như được câu hò chău chuốt cứ ánh lên, dậy hương với vị mặn nồng không thể lẫn.
 Sông Thương không chỉ làm lên cảnh đẹp mà sông còn mang  tôm cá nuôi sống con người, mang phù xa mầu mỡ đắp bồi  trù phú một làng quê bến nước.
 Có những tháng sông cũng lao sao sóng , hay giận hờn hung giữ đến điên cuồng. Đó là sau những ngày hè oi ả tiếp đến những cơn mưa sầm sập phía đầu nguồn, nước từ năm con sông ầm ầm đổ về nhấn chìm cả làng trong làn nước phù xa mênh mông đỏ ối . Một làng ven sông trù phú chỉ còn lập lờ mấy ngọn tre và khu đất cao giữa làng đang oằn mình gánh chịu những bồ thóc lúa, chăn màn của cả làng... Kiến, chuột, lợn gà chen chúc cùng đám trẻ con nô đùa không thể làm khuất đi dáng những cụ già nhóp nhép nhai trầu,  ôm tay ngồi bó gối nhìn dòng nước.
 Lũ về mang theo cơ man những bè tre, gỗ bị vỡ mảng từ phía thượng nguồn lao băng băng theo sóng lũ, ngọn sóng thúc vào nhau tại Lục Đầu cứ réo lên ùng ục. Mỗi một con sóng khi bị dòng kia ngăn cản đều tạo thành một dòng xoáy. Con nước hung dữ nhất vẫn là con lũ từ sông Trũ, nó lao qua sông Thương đổ thẳng vào Lục Đầu Giang, hợp nhất năm con xoáy của năm sông thành một con xoáy lớn, đường kính của nó khoảng hai mét, xoáy theo hình trụ đứng: xuất phát từ đáy sông thẳng lên mặt nước với tiếng hút nước chùn chụt nghe rợn người.  Cái nguy hiểm của con xoáy này là không đứng yên một chỗ , nó di chuyển vòng tròn quanh làng ba bốn vòng theo chiều kim đồng hồ với đường kính khoảng một km, tịnh tiến dần về tâm Lục Đầu ở phía cuối làng, tại đây: tất cả những gì trôi theo dòng lũ như thuyền bè,  tre, ngỗ và những cây to nguyên cả rễ cành đều bị lỗ xoáy dựng đứng rồi nuốt chửng, bị vò sé, quăng quật ở hườm đá dưới đáy sông đến tan tành mới ném những mảnh vụn đi thật xa. Khi đã hoàn thành sứ mệnh, lỗ xoáy  biến mất, một lỗ xoáy khác lập tức suất hiện phía thượng nguồn, lại xoay tròn, tịnh tiến dần vào tâm thành một chu trình lặp đi lặp lại.
 Trôi về ký ức tuổi thơ, tôi thấm thía câu : “ Sống trong cát, chết vùi trong cát”, dòng Lục Đầu đã cho dân làng tôi rất nhiều nhưng cũng để lại nỗi hãi hùng không ít. Những vụ sập cạm, hàng trăm lưỡi câu quấn quanh mình, khi vớt lên  con mắt người chết vẫn mở trừng trừng với thân hình co quắp rất thương tâm. Rồi khi lũ về, bọn đàn ông trai kiện bất chấp nguy hiểm lao vào dòng lũ vớt gỗ để thể hiện tính quật cường chinh phục dòng lũ của người sông nước, vừa mong kiếm chút tiền dắt lưng làm vốn sinh nhai.
 Trong dòng lũ, những bè gỗ nặng nề trôi chầm chậm còn những mảng nứa nổi hơn thì trôi băng băng. Muốn vớt được chúng, người vớt phải bơi xuôi theo dòng nước đuổi theo bè gỗ, lựa thế tránh những mảng phía sau đâm tới rồi đu mình lên, lái bè về mỏm đất nổi giữa làng. Công việc tưởng thật rễ ràng nếu tuân thủ hai điều: Chú ý mảng nứa phía sau đâm tới khi đang dùng hai tay dựng đứng người trèo lên bè,  và không được nhầm lẫn khi bè đã xoay đủ hai vòng quanh làng. Nếu lúc đó không lái được, dù “của trời”Có lớn đến đâu cũng phải bỏ mà bơi vào vì  vòng thứ ba, bán kính của vòng xoáy đến gần tâm có lực hút rất mạnh, lúc đó có nhẩy xuống bơi vào cũng chưa có ai thoát khỏi cái chết mất thây.
 Từ xa sưa, đứa trẻ cũng biết đến điều cấn kỵ này, nhưng  mùa lũ vẫn có người bất cẩn bị mảng nứa phía sau đâm xuyên thấu qua lưng, chết đứng trôi theo vòng xoáy, mất xác giữa tiếng gào thét bất lực của người thân và dân làng.
 Có một điều lạ là ngay sát tâm của lỗ xoáy hơn trăm mét là đền thờ thần Trương Hát, sau vụ lụt ngôi đình hầu như còn nguyên vẹn. Nước rút, dân làng kéo nhau ra cào bùn, tô tượng, sửa sang những phần hư hại chuẩn bị cho mùa lễ hội năm sau.
 Khi có chính sách di dân, làng cũ không còn ai ở, ngôi đền không tu sửa cứ bị hoang phế  sau mỗi trận lụt và lâu dần gạch ngói bị lũ cuốn trôi. Đã có thư của các bậc bô lão xa sứ kêu gọi xây dựng lại đền nhưng đầu năm 2012 tôi về thắp hương vẫn chỉ chỉ thấy một gôi miếu nhỏ lộ thiên giữa nền móng cũ. Cảnh vật xung quanh cô quạnh đến hoang vu.
                                     
                                                                      12/1/2012





Xin chào anh Nhã
    Chúc mừng anh đã gia nhập xóm trian. Tôi rất mừng vì như vậy nhóm trian Chí Linh thêm một thành viên mới.
    Hy vọng anh mau tìm được tiếng cười, sự chia sẻ miềm vui mỗi sớm mai thức dậy
                                                                 mong anh hãy liên hệ với TÔ QUANG qua số điện thoại;
                                                                 0908187513. Năm mới ,xin chúc anh thêm nhiều niềm vui mới.

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

                            NHỚ !

Tất cả đèn đường thắp sáng đêm nay *
Xanh thẫm hàng cây tưng bừng quán xá
Chỉ một mình em giữa ảo huyền xa lạ
Em ở đâu trong tuyết trắng đêm nay

Em ở đâu trong tuyết trắng đêm nay
Em gọi ai dọc bờ sông mây
Lời em khan ngược chiều tuyết bụi
Bước chân mồ côi trái tim tha thủi

Cứ ước ao Đà Lạt nửa vầng trăng
Nửa vầng trăng trên trời phiêu dạt
Thác dội Cam Ly có lần em đã hát
Như thơ anh thường khắc khoải đi tìm

Chưa một lần được hò hẹn cùng em
Đã được cầm tay sánh vai dạo phố
Đà Lạt, Sài Gòn đã quen đã ở
Nhớ cánh tay mềm thân thuộc cả hương hoa

Biết thế nào cũng nhớ lắm khi xa
Kỷ niệm không quên là những đêm không ngủ
Là Đà Lạt đượm nồng hương ấp ủ
Là tình yêu đợi em cuối con đường

*( Ở NÔNG THÔN NỮNG NGÀY TẾT MỚI THẮP SÁNG ĐỀN ĐƯỜNG )

                                      01 tết nguyên đán 2009